Mỗi khi có việc trọng đại, ông bà ta thường xem xét, lựa chọn những ngày tốt, tránh ngày xấu, và ngày Dương Công Kỵ Nhật cũng là ngày đáng được để tâm và lưu ý. Tuy nhiên ngày Dương Công Kỵ Nhật là gì, nguồn gốc và ý nghĩa ngày Dương Công Kỵ Nhật ra sao thì không phải ai cũng biết. Đây là vấn đề đang được rất nhiều quý độc giả quan tâm và tìm kiếm. Hãy cùng theo dõi bài viết dưới đây của website Tử Vi Số Mệnh (tuvisomenh.com.vn) để biết thêm thông tin chi tiết.
Cách tính ngày Dương Công Kỵ Nhật
Trong một năm có 12 tháng, mỗi tháng có 1 ngày Dương Công Kỵ Nhật, đặc biệt tháng 7 có 2 ngày Dương Công Kỵ. Bởi vậy cả năm có 13 ngày Dương Công Kỵ.
Những điều kiêng kỵ trong ngày Dương Công Kỵ Nhật
Ông bà ta vẫn có câu: "Có thờ có thiêng, có kiêng có lành". Bởi vậy trong ngày Dương Công Kỵ Nhật cần chú ý, cẩn trọng trong lời ăn tiếng nói, cũng như việc đi lại để hạn chế được mọi điều không may mắn.
Ngày Dương Công Kỵ Nhật là gì và ý nghĩa ngày Dương Công Kỵ Nhật
{Bài viết xem nhiều cùng chủ đề}
Xin chân thành cảm ơn quý độc giả. Mong rằng Tử Vi Số Mệnh luôn là địa chỉ tin cậy và yêu thích của bạn mỗi khi tìm hiểu và giải đáp thắc mắc về phong thủy - tử vi.
Chúc quý độc giả và gia đình bình an, gặp nhiều may mắn và thành công trong cuộc sống!
%PDF-1.5 %µµµµ 1 0 obj <> endobj 2 0 obj <> endobj 3 0 obj <>/ProcSet[/PDF/Text/ImageB/ImageC/ImageI] >>/MediaBox[ 0 0 595.44 841.92] /Contents 4 0 R/Group<>/Tabs/S>> endobj 4 0 obj <> stream xœí]ÍŽ$Ém¾ÐïPÇA�›ñ—‘ , ¨êªòl‚ÐaåƒaX»ä±µëôÙOa¿ƒ.>,à`�‘¿Œ¬léfH;Ó�Å$$ƒÉȬ¹~yùôÍCœ„yúò»—Oâ4ºÿ‰Ó²zœOj¦Ó—}ù4ž¾‡?þêåÓw¯§Ïÿxúò·/Ÿîîî?¾|ú•ÿSI1,ÓI™ÁÈÓ<蓘ÇàÇyùô›_œ¾¾|º~Ù¸±‡ÙsÿîUD<�0Tã †§‚á¯ð–o’XÅë•J j>ÙY–X|;Žòâþ{õí~6ßúÇQ¹ÿÛóÛ¿_ÏÂâuý~9¿)÷³šÏðѨðW"Ñ7wINg}ätv�úrñ—•8o£¢ª¢¨†KK¢h²Öu‰KîR±ØaV';ÉAOë�6éÍ«EF9Ì6'WKd† ~ö–QÂ/õÍ°gåÜ“1¼æË^©G]�·™/3,8#—÷ó›vß—ÈîMµßä·Þ¹p‡2ç7¿ß4ýà‰/5'¦ÖÓ8ÈÔvu'•q(ì0N'«Õ ×eˆÑ•¾Œ;ý¾©+2V£§Û¨ïþÇш³X€ò‚wˆÛ9¾ÁE¢ð±Æ��L"óñ è+…yÎ,�é‰þ¾âçV£ZŽ^ãe+©ý¯fFbó¾/Ü•3¡HìQXrË*z˜õÉJ3Œ²CKùÍŽÓ`Ѿ5hŨ‡iIi«Þ”�°’-7΃µÉ�€àJo°Îì]ˆösdðð¡'gMçö›÷d.Y×$OzXL®óÛœü±´è}¾þÐØ�r:[I�kÝ&ÙGk�Ûæž'TÅJ˜âNé—ðÛWùÍøÛÏC+¨Œ¦�êQPMË8L¶Tj°*¥ÝT ¾“ * ؤðg¸î7²‹¥[ØÔ.¶„Œï AˆU_®YTŠ[% ×.ÝÎ1†_äFkÝ1H3ûh1fšb&3´ ƒ©¶‘Á˜B»ÿæÍàp½iÏñº Ã3^étJ×f^M³ÅRµuá½ì3hˆrk»th…+ß\úfi¿y˜Z”[áÃ!º–sG0 k——6%,7Ê–·Àfªš-§ZœJ;Lrß’Bìí¢¥ØÛC¢íyS)1îe¦jÄ©ÒÖoò=fQFfŸö!(\á³ôÒd Ž–ŠèÎJP(ëSœ²‹¯j ÃE™oœ./ðóÞøÐn{ì\]ðùó«�®|øQ?êš›]êGê'v7GË;R³»Û9œ8E—À¯ÆlíÝܮڹ¢°¹wÑ’£Ÿ_}ptºz±¤ŽÖtôdjË,*epòÜQ½žüƒË•„ÚY¶Ä´Ï•-Ñ�ë^EðºßÚìQY¸v]/‡ÔPÓ0›\�ǃ°ªHf<+ûm¥,‚ÚéaÎs”X¤�š Ï¥,™ví©®sÉV•í»+s¦¨Ï•±5eæi�¹�d´ýÖœzÅ]Ÿý‚W\~ÇÿD9Ô˜kBYŸ_ywr±ëv”Ù»1ís±Ýé»rr·ÙÚÚ-îL
Khi Tổng bí thư Đảng cộng sản Liên Xô Mikhail Gorbachev phát động chính sách “cải tổ”, hai “công cụ hỗ trợ” rất quan trọng được các cố vấn của ông ta tham mưu, đề xuất sử dụng là thúc đẩy “đa nguyên ý kiến” và “công khai hóa” trong xã hội Xô viết. Lúc đầu cũng chỉ là “đa nguyên ý kiến”, chưa phải là đa đảng, và “công khai hóa” trong lĩnh vực báo chí – xuất bản, chứ chưa chạm đến công khai, minh bạch trong quản lý xã hội, quản lý kinh tế…
Ảnh trái: Lãnh đạo các nước cộng hòa thuộc Liên bang Xô viết ký hiệp định Belovezha về việc giải thể Liên Xô
và thành lập Cộng đồng các quốc gia độc lập (SNG) ngày 8-12-1991. Ảnh: Getty Images.
Ảnh phải: “Bộ ba” Yeltsin-Shushkevich-Kravchuk (từ phải sang trái) tại cuộc họp dẫn đến
hiệp ước “khai tử” Liên Xô. Ảnh: Getty Images.
Hai “công cụ hỗ trợ” này đã giúp Mikhail Gorbachev và ê-kíp của ông ta “bật đèn xanh” rất thoáng cho những phát biểu công kích Đảng và chế độ Xô viết, xuyên tạc lịch sử đất nước, bôi nhọ nhiều nhà lãnh đạo, người có công trong việc tạo lập, xây dựng và bảo vệ Nhà nước Liên bang Xô viết.
Trong điều kiện cải tổ, truyền hình, phát thanh, nhà xuất bản, báo chí Liên Xô dường như được “tự do” hoạt động, hàng loạt chương trình, ấn phẩm đủ thể loại được cho là “dũng cảm” mổ xẻ những trang “đen tối” của Đảng cộng sản, Nhà nước và quân đội Xô viết.
Cùng với đó, đường phố, quảng trường, công viên, nhất là tại những đô thị lớn như thủ đô Moscow, thành phố Saint Petersburg, trở thành nơi tập hợp, thành diễn đàn của các phe nhóm chống Đảng Cộng sản Liên Xô. “Đa nguyên ý kiến” và “công khai hóa” lan rộng, thì các đảng chính trị mới đối lập với Đảng cộng sản Liên Xô liên tiếp ra đời, tất cả đều đòi thủ tiêu vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Liên Xô đã được thể chế hóa trong Hiến pháp.
Một số cơ quan báo chí Liên Xô khi đó vẫn kiên định lập trường kiên quyết bảo vệ chủ nghĩa xã hội và Nhà nước Liên bang Xô viết thì bị coi là “bảo thủ”, phải hứng chịu những cuộc công kích dữ dội, thậm chí lực lượng chống Đảng cộng sản Liên Xô có những ngày tổ chức mua hầu hết số lượng báo chí xuất bản, dồn lại châm lửa đốt rụi tại các địa điểm công cộng.
Nhiều tờ báo quốc tế đưa tin về sự sụp đổ của Liên Xô. Ảnh: Tổng hợp
Nhà báo Nguyễn Đăng Phát, Phóng viên thường trú Thông tấn xã Việt Nam tại Liên Xô/Nga giai đoạn 1989-1993, người chứng kiến những năm tồn tại cuối cùng của Liên bang Xô viết, Tổng Thư ký Hội Hữu nghị Việt-Nga, nhớ lại: “Dựa trên “tâm trạng xã hội” do chính sách đa nguyên ý kiến và công khai hóa khuấy động lên như vậy, hoạt động nghị trường trong khuôn khổ Đại hội đại biểu nhân dân Liên Xô và Xô viết Tối cao Liên Xô cũng sục sôi như không khí ngoài đường phố. “Nóng” nhất là những cuộc tranh cãi, những lời hô hào đòi bỏ Điều 6 của Hiến pháp Liên Xô (về vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Liên Xô).
Rốt cuộc, Điều 6 bị xóa bỏ, Đảng cộng sản Liên Xô trở thành một đảng “bình thường” như những chính đảng khác đã ra đời ồ ạt như nấm mọc sau cơn mưa… Từ đây, đường đến chỗ Liên bang Xô viết sụp đổ không còn xa nữa”.
Ngay sau khi Mikhail Gorbachev trở thành Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô vào năm 1985, Alexander Yakovlev, người được mệnh danh là “kiến trúc sư cải tổ”, “cha đẻ công khai hóa” của Liên Xô và “điệp viên có ảnh hưởng” của Mỹ, đã nhanh chóng được đề bạt làm Trưởng ban Tuyền truyền Trung ương.
Dưới sự tác động và chỉ đạo của ông ta, nhiều tờ báo hàng đầu và có ảnh hưởng lớn của Liên Xô lúc đó đã được thay ban lãnh đạo bằng những người ủng hộ chính sách “cải tổ” do Gorbachev đưa ra.
Chính điều này đã tạo điều kiện cho truyền thông “trở mặt” và bắt đầu thao túng dư luận, nhằm thay đổi nhận thức và tư tưởng của mỗi người dân. Một số tờ báo và tạp chí “cấp tiến” quay sang đả kích và bôi nhọ chế độ xã hội chủ nghĩa, khiến nhận thức và tư tưởng của dân chúng bị lung lay.
Ảnh 1: Tổng bí thư Đảng cộng sản Liên Xô Mikhail Gorbachev; Ảnh 2: Alexander Yakovlev, người được mệnh danh là “kiến trúc sư cải tổ”, “cha đẻ công khai hóa” của Liên Xô; Ảnh 3: Yakovlev (ảnh trái) và Gorbachev đi dạo trên cánh đồng ở Canada năm 1983.
Dưới sự điều khiển báo chí của Yakovlev, quá trình phá hoại Liên Xô vào cuối thập niên 1980 diễn ra không giống như một cuộc xung đột giai cấp, mà là sự thay đổi âm thầm trong nhận thức và tư tưởng của mỗi người. Được sử ủng hộ của Gorbachev, ông ta đã mặc sức phá hoại nền tảng văn hóa con người Xô viết bằng cách “giết dần giết mòn” nền tảng đó.
Sau khi chương trình “công khai hóa” bắt đầu có hiệu lực từ năm 1986, một số lượng lớn các tác phẩm văn hóa, vốn trước đây từng bị cấm xuất bản, đã được tung ra trước công chúng.
Ban đầu, người dân Liên Xô không biết tỏ thái độ thế nào với chính sách “công khai hóa”, cũng như đưa ra đánh giá như thế nào về những gì đang diễn ra. Mọi người chưa thể hình dung được những hậu quả cuối cùng sẽ ra sao khi bãi bỏ kiểm duyệt như vậy.
Người ta cho phép phát hành những tác phẩm công khai chỉ trích chính quyền Xô viết và mô hình chính quyền xã hội chủ nghĩa. Trong đó có những tác phẩm như: “Những đứa trẻ Arbat” của Rybakov, “Biến mất” của Trifonov, “Cuộc sống và số phận” của Grossman…
Một người cầm lá cờ Xô Viết đứng trước tượng đài Lenin ở Minsk- Belarus. Nguồn: Reuters
Cùng với các tác phẩm nghệ thuật, báo chí số ra theo kỳ cũng trở nên phổ biến, trong đó có “Luận chứng và sự kiện” (được đưa vào sách kỷ lục Guinness về số lượng phát hành lớn nhất thế giới với 30 triệu bản mỗi ngày), “Sự thật”, “Tin tức Moscow”, “Thế giới mới”, “Lao động”... Các chương trình truyền hình “Nhìn nhận”, “Trước và sau nửa đêm”, “Bánh xe thứ năm” trở nên rất nổi tiếng. Bảng xếp hạng các chương trình truyền hình cho thấy chúng chiếm những vị trí đầu tiên.
Qua những chương trình truyền hình này, khắp mọi nơi người ta bắt đầu bàn tán về sự không hoàn hảo của hệ thống xã hội chủ nghĩa, những ưu điểm của phương Tây, thậm chí còn xét lại lịch sử khi đề cấp đến vai trò lãnh đạo của Stalin và tác hại của Cách mạng Tháng Mười đối với nước Nga. Tại thời điểm đó, thể hiện rõ nhất sự thay đổi nhanh chóng trong tư duy và nhận thức của người dân.
“Công khai hóa” đã dần dần phá hủy toàn bộ nguyên tắc và nền tảng vốn đã hình thành từ trước đó rất lâu. Báo chí bắt đầu đăng tải những bài viết theo chính sách “ngu dân” về đề tài lịch sử và kinh tế kiểu như: “Cả đời các bạn chỉ được nghe những điều giả dối, nhưng bây giờ chúng tôi sẽ nói ra cho các bạn toàn bộ sự thật”.
Bộ máy tuyên truyền của Liên Xô từng được coi là một trong những bộ máy hoạt động mạnh và có ảnh hưởng nhất trên thế giới. Tuy nhiên, công tác tuyên truyền cũng cần được đổi mới phù hợp với yêu cầu của từng giai đoạn phát triển xã hội, trong đó có sự phát triển văn hóa quần chúng ở phương Tây.
Nếu Liên Xô không cản trở dòng nhạc mới và phong cách thời trang, mà ngược lại, nên củng cố và phát triển xu hướng này, thì nước này đã cho thấy rằng, không chỉ trong vũ trụ, mà còn trong những lĩnh vực này họ là người đi tiên phong trên thế giới. Liên Xô lẽ ra phải đi đầu trong mọi lĩnh vực, mặc dù chế độ Xô viết được coi là ở thời kỳ tốt nhất vào thời điểm đó.
Trong những thập niên từ 1960 đến 1980, nước này đã sản xuất ra những bộ phim hay nhất được đưa vào “Quỹ văn hóa thế giới vàng”. Thậm chí ngày nay, nhiều người vẫn say sưa và thích thú xem đi xem lại những bộ phim này. Nhưng cuối cùng, thời trang và âm nhạc phương Tây đã lấn át mọi thứ. Đối với thiếu niên Liên Xô, việc nghe nhạc trong nước hay mặc trang phục Liên Xô đi dạo sẽ làm mất đi thể diện của họ.
Thời trang và âm nhạc phương Tây trở nên phổ biến trong giới trẻ Liên Xô vào thập niên 1980-1990.
Phần lớn người dân Liên Xô lúc đó, do tác động của truyền thông báo chí với chính sách “công khai hóa”, nên muốn có cuộc sống “như ở phương Tây”. Và họ đã đạt được điều đó, nhưng rồi cuối cùng nhận ra rằng, những chiếc quần jean không phải là giá trị cơ bản trong cuộc sống. Các học thuyết, mà trước hết là chủ nghĩa Mác-Lênin, đã bị bỏ lại phía sau rất xa, thậm chí còn bị lãng quên.
“Học thuyết Mác-Lênin nhất định phải được phát triển có tính đến những thay đổi diễn ra trên thế giới, nhưng hiện không ai làm điều này và cũng không có những nhà tư tưởng như vậy để làm. Nhưng Lênin vẫn không ở lại phía sau chúng ta, mà là đang ở phía trước.
Rồi thời đại của Người chắc chắn sẽ quay trở lại sau bao năm bị lãng quên, cố tình im lặng về nhân vật vĩ đại nhất trong lịch sử nước Nga này”, ông Grigory Trofimchuk, chuyên gia trong lĩnh vực chính sách đối ngoại, quốc phòng và an ninh, Chủ tịch Hội đồng chuyên gia Quỹ nghiên cứu Á-Âu, nhận định.
Sinh thời, V.I. Lênin từng nêu một luận điểm nổi tiếng: “Một cuộc cách mạng chỉ có giá trị khi nào nó biết tự vệ”. Còn Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu của chúng ta thì luôn đề cao giáo dục truyền thống cho các thế hệ mai sau.
Người căn dặn: “Dân ta phải biết sử ta/ Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”; “Chúng ta phải ra sức bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ hòa bình, cho nên chúng ta phải củng cố quốc phòng...”. Theo Người: “Tự vệ là bảo vệ lấy mình, lấy gia đình mình, rồi đến thành phố mình, nước mình”.
Trong giai đoạn hiện nay cũng như vừa qua, đã có nhiều biểu hiện trào lưu xét lại lịch sử, phủ nhận quá khứ hết sức nguy hiểm. Không phải ngẫu nhiên mà Đảng ta xác định một trong 9 biểu hiện “tự diễn biến, tự chuyển hóa” là: “Nói, viết, làm trái quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Hạ thấp, phủ nhận những thành quả cách mạng; thổi phồng khuyết điểm của Đảng, Nhà nước. Xuyên tạc lịch sử, bịa đặt, vu cáo các lãnh tụ tiền bối và lãnh đạo Đảng, Nhà nước”.
Chúng ta phải làm tốt hơn nữa việc giáo dục truyền thống lịch sử cách mạng, để lịch sử như tấm gương soi, giúp thế hệ sau soi vào cả quá khứ và hiện tại, tương lai với sự trân trọng, biết ơn, rút ra những bài học kinh nghiệm quý giá.